Việt Nam cần có chính sách cởi mở hơn, thông thoáng hơn về thương mại số, TS. Konstantin Matthies (Công ty Alphabeta) khuyến nghị.
Hội thảo "Cách mạng dữ liệu: thuơng mại trên nền tảng số và cơ hội cho Việt Nam" được Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) tổ chức sáng 26/3.
Trình bày báo cáo chính của hội thảo, TS. Konstantin Matthies nhấn mạnh rằng, cơ hội cho Việt Nam với thương mại số là rất lớn. Nếu kỹ thuật số cũng được coi là một lĩnh vực, nó sẽ là ngành xuất khẩu lớn thứ 8 trong nền kinh tế Việt Nam, trị giá tới 97 nghìn tỷ đồng và tăng thêm 570% vào năm 2030.
Nghiên cứu được công bố tại hội thảo cho thấy, thương mại trên nền tảng số không chỉ là một cách để tăng cường và đa dạng hoá cơ sở xuất khẩu của Việt Nam mà còn là cách để giúp các doanh nghiệp Việt ở mọi lĩnh vực của nền kinh tế tận dụng các công nghệ kỹ thuật số.
Tuy nhiên, cho đến nay tầm quan trọng của thương mại trên nền tảng số trong việc giúp Việt Nam đạt được tầm nhìn này vẫn còn ít được chú ý. Các số liệu kinh tế truyền thống đã không còn theo kịp tốc độ tăng trưởng chóng mặt của nền kinh tế kỹ thuật số và hiện thiếu đi dữ liệu đủ mạnh để đo lường tầm quan trọng của thương mại trên nền tảng số đổi với xuất khẩu hoặc đối với nền kinh tế quốc nội.
Nhắc đến con số thương mại số ước tính đạt được 953 nghìn tỷ đồng vào năm 2030, TS. Konstantin Matthies đặt vấn đề, cơ hội lớn như vậy nhưng vận dụng chúng như thế nào?
Phải thừa nhận hiện có những mối quan ngại liên quan đến thương mại trên nền tảng số, không chỉ riêng của Chính phủ Việt Nam, vị chuyên gia ngoại nhấn mạnh.
Những quan ngại được TS. Konstantin Matthies đề cập là bảo vệ quyền riêng tư của công dân, bảo vệ an ninh quốc gia, hỗ trợ sự phát triển của các doanh nghiệp kỹ thuật số và việc làm trong nước, bảo vệ cơ sở tính thuế trong nước.
Liên quan đến đảm bảo an ninh quốc gia, vị chuyên gia nước ngoài nhấn mạnh rằng, yêu cầu nội địa hoá không làm cho dữ liệu an toàn hơn. Trên thực tế, chúng chỉ khiến các nhà cung cấp dịch vụ đám mây không thể tận dụng cơ sở hạ tầng phân tán trên internet và sử dụng sharding.
Hơn nữa, nghiên cứu chỉ ra rằng trên thực tế các nhà cung cấp dịch vụ lưu trữ địa phương kém nghiêm ngặt trong việc bảo mật dữ liệu hơn so với các nhà cung cấp toàn cầu do nguồn tài chính ít hơn, chuyên môn công nghệ kém hơn, nhu cầu cạnh tranh để thu hút khách hàng ít hơn cùng các hạn chế về công nghệ, TS. Konstantin Matthies nói.
Có chút nghi ngại về cơ sở để đưa ra những con số được ông Konstantin Matthies nhấn mạnh, song chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan cũng nói thêm rằng có những số liệu của Việt Nam gây nghi ngờ vì thiếu hệ thống số liệu thống nhất.
Nếu gạt qua nghi ngại đó thì xu hướng thương mại số được ông Konstantin Matthies trình bày vẫn rất thuyết phục, bà Chi Lan nói.
Về cơ hội của Việt Nam, nữ chuyên gia đề cập ba khía cạnh đang là thách thức hiện nay, trong đó số 1 là các vấn đề dữ liệu.
Dữ liệu của Việt Nam hiện nay vừa thiếu vừa không kịp thời, ngay cả số liệu của Tổng cục Thống kê nhiều khi cũng có độ vênh, thiếu tính cập nhật hoặc công bố xong ít hôm sau lại điều chỉnh, bà Chi Lan bình luận.
Rào cản thứ hai, theo nữ chuyên gia nằm ở hệ thống pháp luật chưa đủ minh bạch và nhất quán. Mấy năm gần đây Nhà nước đưa ra hàng loạt quy định khuyến khích phát triển công nghệ cao để có năng suất lao động cao hơn nhưng căn bệnh ở chỗ ngay cả quy định mới cũng chưa đủ độ minh bạch và nhất quán nên tính khả thi yếu, có những quy định tốt mà doanh nghiệp không tiếp cận được, bà Lan nhìn nhận.
Hệ thống luật có hàng loạt quy định chuyên ngành gây ra nhiều rào cản, quá rối rắm, thiếu vắng tính đồng bộ, chuyên gia nhấn mạnh.
Khía cạnh thứ ba được bà Chi Lan nêu liên quan đến tập quán kinh doanh, khi 98% doanh nghiệp của Việt Nam là siêu nhỏ, nhỏ và vừa, quy mô kinh doanh nhỏ, trình độ quản trị hạn chế và năng lực tài chính hạn hẹp.
Về cơ hội, nữ chuyên gia nhấn mạnh tính thời điểm, bởi nếu không tận dụng được cơ hội dân số vàng này thì sau đó sẽ khó khăn gấp bội.
Post a Comment