Tham luận tại Hội trường trong buổi sáng ngày 27/1, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng nhất trí cao với các Báo cáo đã được chuẩn bị công phu, chất lượng trình Đại hội XIII.
Theo Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng, các báo cáo không chỉ phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện những kết quả thực hiện nghị quyết Đại hội 12 và cơ đồ đất nước sau 35 năm đổi mới, xác định những thành tựu quan trọng đã đạt được mà còn thẳng thẳn chỉ rõ những hạn chế, khuyết điểm và nguyên nhân, rút ra những bài học kinh nghiệm. Trên cơ sở đó, xác định tầm nhìn và định hướng phát triển, quan điểm chỉ đạo, mục tiêu tổng quát đến năm 2025, 2030 và tầm nhìn đến năm 2045; các chỉ tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025; cùng định hướng phát triển đất nước nói chung và trong từng ngành, lĩnh vực nói riêng; xác định 6 nhiệm vụ trọng tâm và 3 đột phá chiến lược trong nhiệm kỳ Đại hội 13.
THUẬN LỢI VÀ THÁCH THỨC ĐAN XEN
Bước sang giai đoạn 2021-2025, với chiến lược 10 năm 2021-2030 và tầm nhìn đến năm 2045, Bộ trưởng bày tỏ sự thống nhất cao với nhận định trong Báo cáo Chính trị về tình hình thế giới và đất nước những năm tới về những thuận lợi cơ bản về ổn định chính trị, kinh tế vĩ mô, nền kinh tế năng động, phát triển, cũng như nhiều khó khăn, thách thức phải đối mặt, đặc biệt là xu thế cạnh tranh các nước lớn trên thế giới và trong khu vực, tác động của biến đổi khí hậu và sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Với chủ đề tham luận: "Xây dựng và hoàn thiện nền tài chính quốc gia theo hướng hiện đại, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước", Ban cán sự đảng Bộ Tài chính xác định, nhiệm vụ trọng tâm của ngành tài chính trong giai đoạn tới là: tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế tài chính, cơ cấu lại ngân sách nhà nước, nợ công nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phát triển và cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh đổi mới khu vực sự nghiệp công lập, tiếp tục sắp xếp, tinh gọn bộ máy, biên chế cùng với cải cách, hiện đại hoá công tác quản lý; siết chặt kỷ luật, kỷ cương tài chính-ngân sách; củng cố dư địa tài khóa, nâng cao khả năng chống chịu của nền tài chính quốc gia. Trong đó tập trung vào 6 nhiệm vụ chủ yếu.
Thứ nhất, Tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ tiếp tục hoàn thiện chính sách huy động; phát triển hệ thống thu hiện đại, phù hợp với trình độ phát triển, hội nhập và thông lệ quốc tế, góp phần tạo dựng môi trường đầu tư kinh doanh minh bạch, hiện đại, thuận tiện...
Thứ hai, tăng cường quản lý ngân sách nhà nước, triển khai đồng bộ, hiệu quả các kế hoạch tài chính 5 năm, kế hoạch vay - trả nợ công 5 năm và kế hoạch đầu tư công 5 năm; kiểm soát chặt chẽ bội chi ngân sách và nợ công, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, tăng cường ổn định vĩ mô vững chắc, đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững, nâng cao hệ số tín nhiệm quốc gia.
Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại ngân sách nhà nước, nợ công, từng bước cải thiện dư địa chính sách tài khóa. Đẩy mạnh cơ cấu lại chi ngân sách nhà nước trên cơ sở phân định rõ vai trò, chức năng của Nhà nước và thị trường. Tiếp tục phát triển lành mạnh các thị trường tài chính, chứng khoán, bảo hiểm, các dịch vụ tài chính để huy động nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ tư, quyết liệt thực hiện các mục tiêu Nghị quyết số 18, số 19 Khoá 12 về tinh gọn bộ máy nhà nước, nâng cao chất lượng, hiệu quả bộ máy hành chính, đổi mới khu vực sự nghiệp công lập, hoạt động cung ứng dịch vụ sự nghiệp công, đồng thời cơ cấu lại căn bản chi ngân sách nhà nước.
Thứ năm, khẩn trương hoàn thiện cơ chế về đổi mới nâng cao hiệu quả doanh nghiệp; phấn đấu đến năm 2025, cơ bản hoàn thành việc sắp xếp lại khối doanh nghiệp nhà nước, tập trung vào các doanh nghiệp nhà nước có vị trí quan trọng, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh; cơ cấu lại, phát triển các doanh nghiệp này theo cơ chế thị trường, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế.
Thứ sáu, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính; ứng dụng công nghệ thông tin; tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, công khai, minh bạch, giám sát an toàn khu vực tài chính; siết chặt kỷ luật, kỷ cương tài chính - ngân sách, phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí... Phấn đấu đến năm 2025 hoàn thành xây dựng Chính phủ điện tử, chính phủ số ở những lĩnh vực tài chính quốc gia, tài chính công trọng yếu (ngân sách nhà nước, thuế, hải quan, chứng khoán, quản trị vốn nhà nước tại doanh nghiệp…).
CỦNG CỐ NỀN TÀI CHÍNH QUỐC GIA AN TOÀN, BỀN VỮNG
Đánh giá về việc thực hiện trong nhiệm kỳ qua, Bộ trưởng cho biết: ngành Tài chính đã quán triệt và tổ chức thực hiện các nghị quyết chỉ đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ nhiệm kỳ vừa qua, có những bước phát triển bền vững, đóng góp quan trọng vào kết quả phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh của đất nước. Ngành Tài chính đã tập trung hoàn thiện thể chế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy quá trình đổi mới, cơ cấu lại, phát triển nền kinh tế, hội nhập quốc tế; cơ cấu lại ngân sách nhà nước và nợ công theo hướng bền vững; tăng cường kỷ luật, kỷ cương, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực.
Thu ngân sách nhà nước đã xây dựng được hệ thống chính sách thu ngân sách, động viên hợp lý, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; bao quát các nguồn thu, chống chuyển giá, công khai, minh bạch; chuyển phương thức quản lý thu từ tiền kiểm sang hậu kiểm theo nguyên tắc quản lý rủi ro; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính kết hợp hiện đại hoá công tác quản lý thu; đồng thời tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra.
Nhờ vậy, nên mặc dù liên tục thực hiện điều chỉnh giảm nghĩa vụ thu, cắt giảm thuế quan theo các hiệp định thương mại tự do, xóa bỏ các khoản phí, lệ phí không phù hợp, nhưng tổng thu ngân sách nhà nước cả giai đoạn 2016-2020 vẫn vượt mục tiêu đề ra và đạt khoảng 6,9 triệu tỷ đồng, tương ứng trên 25% GDP.
Cơ cấu thu đã dịch chuyển theo hướng bền vững hơn, phù hợp với trình độ phát triển và hội nhập của nền kinh tế, tăng tỷ trọng thu nội địa từ mức bình quân 68,7% giai đoạn 2011-2015 lên mức 82% giai đoạn 2016-2020 và đến năm 2020 đạt mức 85,5%; giảm tỷ trọng thu từ xuất nhập khẩu và dầu thô.
Thu ngân sách địa phương có xu hướng tăng, từ mức 37,4% tổng thu ngân sách nhà nước giai đoạn 2011-2015 lên mức 45% giai đoạn 2016-2020, đã tăng cường khả năng tự chủ cho địa phương. Đến năm 2020, đã có 30/63 địa phương có quy mô thu ngân sách nhà nước trên 10 nghìn tỷ đồng, tăng gấp 2 lần so với năm 2016 (15 địa phương); đồng thời, số địa phương có quy mô thu dưới 5 nghìn tỷ giảm hơn 1 nửa, từ 37 địa phương năm 2016 xuống còn 16 địa phương năm 2020.
Chi ngân sách được kiểm soát chặt chẽ, tăng hiệu quả và thực hiện cơ cấu lại, ưu tiên nguồn lực thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các đột phá chiến lược của nền kinh tế về hạ tầng và phát triển nguồn nhân lực.
Tăng tỷ trọng bố trí chi đầu tư phát triển giai đoạn 2016-2020, bình quân đạt 28-29% tổng chi ngân sách nhà nước, giảm tỷ trọng chi thường xuyên xuống khoảng 63% tổng chi ngân sách nhà nước, vượt mục tiêu đề ra, trong khi vẫn đảm bảo nguồn thực hiện cải cách tiền lương công chức, viên chức, lương hưu và trợ cấp ưu đãi đối với người có công; thực hiện chuẩn nghèo đa chiều, tăng diện bao phủ bảo hiểm y tế, phát triển hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội...
Việc triển khai thực hiện Nghị quyết 19 của Trung ương khóa 12 đạt kết quả tích cực. Nguồn thu sự nghiệp của các đơn vị sự nghiệp công lập trên toàn quốc trong giai đoạn 2016-2020 đạt trên 1,4 triệu tỷ đồng, tập trung ở các địa phương kinh tế phát triển, góp phần cơ cấu lại chi ngân sách, ưu tiên nguồn lực hỗ trợ miền núi, vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Về cân đối ngân sách nhà nước: đã giảm bội chi ngân sách nhà nước từ mức bình quân 5,4% GDP giai đoạn 2011-2015 về mức 3,6% GDP giai đoạn 2016-2020, vượt mục tiêu đề ra (4% GDP).
Về quản lý nợ công: Đã hoàn thiện thể chế, phát triển hệ thống các công cụ quản lý nợ công như Chiến lược nợ công 10 năm, kế hoạch vay trả nợ công 5 năm, 3 năm và hàng năm...; đảm bảo quản lý chủ động, an toàn, bền vững...
Đẩy mạnh cơ cấu lại nợ công theo hướng bền vững hơn, tăng tỷ trọng vay trong nước từ 39% năm 2011 lên khoảng 64% năm 2020; kéo dài kỳ hạn phát hành bình quân lên mức 14 năm trong năm 2020; lãi suất huy động giảm xuống, năm 2020 còn 2,86%/năm; giảm quy mô nợ công từ mức 63,7% GDP cuối năm 2016 xuống 55,8% GDP cuối năm 2020.
Những kết quả tích cực từ việc cơ cấu lại ngân sách nhà nước, nợ công giai đoạn 2016-2019 đã tạo dư địa quan trọng cho chính sách tài khóa, nên trong năm 2020 mặc dù kinh tế khó khăn do tác động nghiêm trọng của thiên tai, dịch bệnh, thu ngân sách sụt giảm, nhưng chúng ta vẫn chủ động nguồn xử lý được các vấn đề cấp bách phát sinh, hỗ trợ tích cực cho các doanh nghiệp, người dân và nền kinh tế, như thực hiện gia hạn cho khoảng 185 nghìn lượt người nộp thuế và thực hiện miễn, giảm thuế, phí, lệ phí cho khoảng trên 6 triệu người nộp thuế, với tổng kinh phí khoảng 130 nghìn tỷ đồng, tạo điều kiện cho người dân, doanh nghiệp phục hồi sản xuất kinh doanh, đảm bảo quốc phòng, an ninh.
Bên cạnh đó, ngành tài chính đã đẩy mạnh việc hoàn thiện đồng bộ thể chế, cơ cấu lại, phát triển thị trường chứng khoán, bảo hiểm, thị trường dịch vụ tài chính. Đến cuối năm 2020, quy mô thị trường chứng khoán đạt trên 130% GDP, vượt mục tiêu đề ra là 100% GDP, trở thành kênh huy động và phân bổ vốn trung và dài hạn hiệu quả cho nền kinh tế.
Triển khai Nghị quyết số 18 của Trung ương khóa 12, ngành tài chính đã tích cực sắp xếp lại bộ máy, tinh gọn đội ngũ công chức, nâng cao hiệu quả, hiệu lực bộ máy. Tính đến hết 2020, đã cắt giảm 4.328 đầu mối đơn vị, giảm 6.460 biên chế (8,7% so với năm 2015); đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra. Đồng thời đã quyết liệt triển khai chủ trương xây dựng Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số và nền kinh tế số. Đến nay, các doanh nghiệp đã cơ bản thực hiện toàn bộ các thủ tục khai thuế, nộp thuế, hoàn thuế, thủ tục hải quan trên môi trường điện tử.
Post a Comment