Gửi báo cáo đánh giá tình hình nợ công năm 2018 đến Quốc hội, Chính phủ cho biết nợ công đã giảm xuống mức 58,4% GDP, và thấp hơn mức dự kiến tại nghị quyết ngày 1/1/2018 của Chính phủ là 61,4% GDP.
Các chỉ tiêu nợ năm 2018 được nêu tại báo cáo đều đảm bảo trong giới hạn được Quốc hội quyết định: nợ Chính phủ/GDP dưới 54%, nợ nước ngoài quốc gia dưới 50%, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ/thu ngân sách dưới 25%.
Nợ công thấp hơn dự kiến, theo Chính phủ là do nền tảng vĩ mô khởi sắc, tăng trưởng GDP vượt kế hoạch và đạt mức cao nhất trong 11 năm qua, quy mô GDP đạt 5.535,3 nghìn tỷ đồng (cao hơn 5,3 nghìn tỷ đồng so với kế hoạch là 5.530 nghìn tỷ đồng).
Điều hành chính sách tài khóa đạt được nhiều thành quả khả quan, thu cân đối ngân sách ước vượt 7,8% so với dự toán, dự kiến bội chi ngân sách thấp hơn so với dự toán là 3,7% GDP, qua đó giảm nhu cầu huy động vốn vay của Chính phủ.
Lý do nữa là giải ngân vốn ODA, ưu đãi nước ngoài chậm hơn dự kiến và biến động tỷ giá được kiểm soát tốt đã góp phần giảm quy mô nợ nước ngoài của Chính phủ khi quy ra đồng Việt Nam.
Cụ thể, tại thời điểm xây dựng kế hoạch vay, trả nợ của Chính phủ năm 2018, giả định biến động tỷ giá đồng Việt Nam so với rổ ngoại tệ chính trong danh mục nợ nước ngoài của Chính phủ sử dụng các dự báo được áp dụng để xây dựng kịch bản kinh tế vĩ mô của nước ta. Thực tế, diễn biến tỷ giá năm 2018 có lợi hơn rất nhiều, đồng Việt Nam tăng giá 0,4% so với các ngoại tệ chính, thay vì mức mất giá dự kiến tại thời điểm đầu năm khoảng 4,1%.
Nợ công giảm, theo lý giải của Chính phủ còn do việc kiểm soát chặt chẽ các khoản bảo lãnh của Chính phủ, không cấp bảo lãnh mới cho doanh nghiệp vay trong nước và khuyến khích người vay trả nợ trước hạn dẫn đến giảm dư nợ bảo lãnh nước ngoài.
Mặc dù quy mô danh mục nợ Chính phủ đến cuối năm 2018 được kiểm soát tốt ở mức 50,0% GDP (so với mức 52,7% vào năm 2016; 51,7% vào năm 2017), trong đó nợ nước ngoài chiếm 38,6%, nợ trong nước chiếm 61,4%, song vấn đề đặt ra, theo Chính phủ, cùng với ảnh hưởng của việc Việt Nam tốt nghiệp IDA kể từ năm 2017, các chỉ tiêu chi phí - rủi ro danh mục nợ Chính phủ, đặc biệt là nợ nước ngoài, có xu hướng kém thuận lợi hơn trước đây.
Cụ thể, rủi ro tái cấp vốn tập trung vào các khoản nợ trong nước của Chính phủ do nghĩa vụ trả nợ đến hạn tập trung cao vào một số năm (9,3% danh mục nợ trong nước của Chính phủ sẽ đến hạn năm 2019; 32,7% sẽ đến hạn trong giai đoạn 2019-2021), tiềm ẩn nguy cơ rủi ro thanh khoản cho ngân sách nhà nước.
Riêng đối với danh mục trái phiếu chính phủ trong nước, trong giai đoạn 2019-2021 nghĩa vụ trả nợ trái phiếu Chính phủ tập trung vào một số thời điểm trong năm và giữa các năm 2020-2021.
Ngoài ra còn các khoản trái phiếu Chính phủ phát hành trong nước bằng ngoại tệ với trị giá 1.700 triệu USD sẽ đáo hạn trong năm 2020 và 2021, phải bố trí ngoại tệ để thanh toán. Đối với danh mục nợ nước ngoài của Chính phủ, các nhà tài trợ đã từng bước điều chỉnh chính sách hợp tác phát triển với Việt Nam theo hướng chuyển dần từ việc cung cấp ODA sang các khoản vay với điều kiện kém ưu đãi hơn, chi phí huy động vốn của một số khoản vay tăng gấp đôi so với giai đoạn trước đây làm gia tăng nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của Chính phủ.
Trong 5 năm tới, các khoản vay ODA sẽ giảm dần, tiến đến kết thúc, dẫn đến thiếu hụt nguồn vốn vay dài hạn, ưu đãi cho đầu tư. Thay vào đó, Chính phủ cần huy động các khoản vay mới với điều kiện kém ưu đãi hơn nhiều, sát với thị trường để bù đắp thiếu hụt cho cân đối ngân sách nhà nước và đầu tư công trung hạn, báo cáo nêu rõ.
Chính phủ cũng đánh giá rủi ro lãi suất danh mục nợ nước ngoài có xu hướng gia tăng do tỷ trọng các khoản vay có lãi suất thả nổi tăng (từ mức 8,8% dư nợ nước ngoài của Chính phủ năm 2015 lên mức 11,6% năm 2018). Trong bối cảnh dự báo điều kiện thị trường vốn quốc tế sẽ thắt chặt hơn trong thời gian tới, nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của Chính phủ khả năng cũng sẽ tăng lên tương ứng.
Đối với nợ trong nước, báo cáo cho biết, lãi suất bình quân gia quyền của danh mục nợ tính đến cuối năm 2018 ở mức 5,8%/năm, giảm đáng kể so với mức 6,6%/năm vào năm 2015.
Trong thời gian qua, khi thị trường thuận lợi, Bộ Tài chính đã chủ động phát hành trái phiếu Chính phủ kỳ hạn dài trên 10 năm để tái cơ cấu danh mục nợ Chính phủ theo hướng bền vững. Tuy nhiên, do quy mô thị trường trái phiếu còn nhỏ, trong khi tiềm lực tài chính của các tổ chức tài chính phi ngân hàng còn hạn chế, việc tập trung phát hành trái phiếu Chính phủ kỳ hạn dài là tương đối khó khăn.
Trong thời gian tới, việc chuyển dần sang huy động theo cơ chế thị trường (do thiếu hụt nguồn vốn vay ODA, ưu đãi) cũng làm tăng đáng kể rủi ro và chi phí huy động vốn của Chính phủ. Ngoài ra, việc không phát hành trái phiếu Chính phủ kỳ hạn ngắn dưới 5 năm cũng dẫn đến đường cong lãi suất chuẩn không đầy đủ, thiếu lãi suất ngắn hạn tham chiếu cho thị trường vốn, Chính phủ đánh giá.
Chính phủ cũng lo lắng bởi mặc dù tỷ lệ vay bằng đồng Việt Nam đã tăng lên (từ 55% vào cuối năm 2015 lên 59,2% dư nợ Chính phủ tính đến hết năm 2018), song danh mục nợ nước ngoài của Chính phủ vẫn tập trung vào 4 loại tiền chủ đạo gồm SDR, JPY, USD và EUR (chiếm tỷ lệ tương ứng 33,9%; 31,2%; 24,6% và 6,0% dư nợ nước ngoài của Chính phủ tính đến 31/12/2018), là những đồng tiền có biến động lớn trong thời gian vừa qua.
Những khoản trái phiếu Chính phủ ngoại tệ phát hành trong nước trong giai đoạn trước cũng làm gia tăng rủi ro tỷ giá đối với tiền USD của danh mục nợ Chính phủ. Ngoài ra, việc điều chỉnh tỷ giá theo hướng giảm giá trị đồng Việt Nam cũng sẽ làm tăng giá trị danh nghĩa các khoản nợ bằng ngoại tệ khi quy sang nội tệ, theo phân tích của Chính phủ.
Post a Comment