Bộ Công Thương vừa đưa ra lấy ý kiến góp ý cho Dự thảo Thông tư quy định về sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam và sản phẩm, hàng hóa sản xuất tại Việt Nam.
Dự thảo Thông tư này được xây dựng chủ yếu dựa trên các bộ quy tắc xuất xứ hiện đang áp dụng cho hàng xuất khẩu từ Việt Nam, trong đó có Nghị định số 31/2018/NĐ-CP ngày 8/3/2018 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Quản lý ngoại thương về xuất xứ hàng hóa.
Các phương pháp xác định xuất xứ chủ yếu của thế giới như xuất xứ thuần túy (WO), hàm lượng giá trị khu vực (RVC) hay chuyển đổi mã sản phẩm theo Hệ thống hài hòa mô tả và mã hàng hóa (Hệ thống HS) của Tổ chức hải quan Thế giới đều được áp dụng trong dự thảo thông tư.
Vá lỗ hổng pháp lý ghi nhãn hàng hoá
Bộ Công Thương cho biết, cho tới nay, Việt Nam đã ban hành nhiều quy định về xuất xứ hàng hóa, trong đó có việc như thế nào thì một sản phẩm được coi là có xuất xứ Việt Nam. Tuy nhiên, các quy định này mới chỉ áp dụng cho hàng xuất khẩu và hàng nhập khẩu, giúp hàng hóa được hưởng ưu đãi thuế nhập khẩu theo cam kết tại các hiệp định thương mại tự do hoặc phục vụ các mục tiêu khác của quản lý ngoại thương.
Với hàng hóa sản xuất, bao gồm cả sản xuất từ đầu vào nhập khẩu, và sau đó lưu thông trong nước, hiện chưa có quy định như thế nào thì được gắn nhãn "sản phẩm của Việt Nam" hay "sản xuất tại Việt Nam".
"Việc thiếu vắng các quy định về việc như thế nào thì một sản phẩm được coi là "sản phẩm của Việt Nam" hay "sản xuất tại Việt Nam" đã khiến nhiều tổ chức và cá nhân lúng túng khi muốn ghi chính xác nước xuất xứ trên nhãn sản phẩm theo quy định của Nghị định 43.
Ở chiều ngược lại, một số mặt hàng dù chỉ trải qua các công đoạn gia công, lắp ráp, chế biến đơn giản tại Việt Nam nhưng cũng gắn nhãn "sản xuất tại Việt Nam" khiến người tiêu dùng thắc mắc, thậm chí bức xúc nhưng các cơ quan chức năng lại không có căn cứ để phân xử", Bộ này cho hay.
Về nguyên tắc, Bộ Công Thương cho rằng Thông tư sẽ không làm phát sinh thêm chi phí cho doanh nghiệp bởi ghi nhãn hàng hóa và công bố nước xuất xứ trên nhãn hàng hóa đã từ lâu là yêu cầu bắt buộc theo quy định của Nghị định 43.
Thông tư chỉ giúp các tổ chức, cá nhân có căn cứ để thực hiện đúng yêu cầu của Nghị định 43, giúp loại bỏ các trường hợp vô tình hay cố tình vi phạm thông tin về nước xuất xứ. Các doanh nghiệp chân chính sẽ không phải đối diện với nguy cơ cáo buộc "gian lận xuất xứ", tránh được rủi ro kiện tụng và mất uy tín với người tiêu dùng.
Ngoài ra, kết hợp với việc thực thi nghiêm túc Nghị định 43 tại cửa khẩu, Thông tư cũng sẽ giúp loại bỏ dần tình trạng hàng nhập khẩu nhập nhèm "đội lốt" hàng Việt Nam như đã rải rác xảy ra trong thời gian qua.
Thế nào thì được công nhận "Made in Vietnam"?
Dự thảo Thông tư nêu rõ cách xác định hàng hóa có xuất xứ thuần túy và hàng hóa không có xuất xứ thuần túy như thế nào được gọi là hàng sản xuất tại Việt Nam.
Theo Điều 8, hàng hóa được coi là có xuất xứ thuần túy hoặc được sản xuất toàn bộ tại Việt Nam khi thuộc một trong các trường hợp: Cây trồng và các sản phẩm từ cây trồng được trồng và thu hoạch tại Việt Nam; động vật sống được sinh ra và nuôi dưỡng tại Việt Nam; các sản phẩm từ động vật sống được sinh ra và nuôi dưỡng tại Việt Nam; các sản phẩm thu được từ săn bắn, đặt bẫy, đánh bắt, nuôi trồng, thu lượm hoặc săn bắt tại Việt Nam…
Vấn đề phức tạp khiến Bộ Công Thương phải xây dựng riêng một thông tư cho hàng made in Vietnam là ở trường hợp thứ hai. Đó là hàng hóa có xuất xứ không thuần túy hoặc không được sản xuất toàn bộ tại Việt Nam nhưng trải qua công đoạn gia công, chế biến cuối cùng tại Việt Nam làm thay đổi cơ bản tính chất của hàng hóa.
Tại dự thảo này, Bộ Công Thương đưa ra 2 tiêu chí để xác định hàng hóa made in Vietnam. Đó là tiêu chí hàm lượng giá trị gia tăng và tiêu chí "chuyển đổi mã số hàng hóa".
Đối với tiêu chí hàm lượng giá trị gia tăng, Bộ Công Thương đưa ra 2 công thức tính.
Một là, một hàng hóa được xác định là có xuất xứ Việt Nam khi có trị giá nguyên liệu đầu vào xuất xứ tại Việt Nam chiếm 30% giá trị xuất xưởng của hàng hóa đó. Ví dụ, một chiếc áo có giá xuất xưởng là 100 nghìn đồng, thì nếu trị giá nguyên liệu đầu vào xuất xứ tại Việt Nam đạt khoảng 30% thì được công nhận là hàng made in Vietnam.
"Trị giá nguyên liệu đầu vào có xuất xứ Việt Nam" bao gồm trị giá của nguyên liệu mua của nhà sản xuất trong nước hoặc do tổ chức, cá nhân tự sản xuất; chi phí nhân công trực tiếp, chi phí nhà xưởng có liên quan đến quá trình sản xuất (bảo hiểm nhà xưởng, chi phí thuê và thuê mua nhà máy, khấu hao nhà xưởng, sửa chữa, bảo trì, thuế, lãi cầm cố); các khoản thuê mua và trả lãi của nhà máy và thiết bị; an ninh nhà máy; nghiên cứu, phát triển, thiết kế và chế tạo các chi phí khác và lợi nhuận…
Một công thức tính khác được Bộ Công Thương đưa ra để doanh nghiệp chọn lựa, đó là trị giá xuất xưởng trừ đi trị giá nguyên liệu đầu vào không có xuất xứ Việt Nam. Nếu tỷ lệ là khoảng 30% thì hàng hóa đó cũng được coi là Made in Vietnam.
"Trị giá nguyên liệu đầu vào không có xuất xứ Việt Nam" là trị giá CIF (bao gồm cả cước vận tải và phí bảo hiểm tính đến cảng hoặc cửa khẩu của Việt Nam) của nguyên liệu nhập khẩu trực tiếp; hoặc giá mua đầu tiên tại thời điểm mua vào ghi trên hóa đơn giá trị gia tăng đối với nguyên liệu không xác định được xuất xứ dùng để sản xuất, gia công, chế biến ra sản phẩm cuối cùng.
Bộ Công Thương "Tổ chức, cá nhân được lựa chọn công thức trực tiếp hoặc công thức gián tiếp để tính VAC và thống nhất áp dụng công thức đã lựa chọn trong suốt năm tài chính", dự thảo nêu rõ.
Một điều cần lưu ý, không phải cứ đạt trị giá nguyên liệu đầu vào xuất xứ tại Việt Nam đạt 30% là hàng hóa đó được xác nhận made in Vietnam. Để được xác nhận hàng made in Vietnam, hàng hóa đó phải vượt qua giai đoạn gia công đơn giản. Một sản phẩm bị coi là không vượt qua công đoạn gia công đơn giản khi hoạt động không cần sử dụng các kỹ năng đặc biệt, máy móc, dây chuyền hoặc các thiết bị chuyên dụng.
Ngoài tiêu chí hàm lượng giá trị gia tăng kể trên, tiêu chí thứ hai để xác định hàng hóa có được dán nhãn Made in Vietnam hay không là tiêu chí "chuyển đổi mã số hàng hóa".
Khác với tiêu chí hàm lượng giá trị gia tăng, tiêu chí "chuyển đổi mã số hàng hóa" này được dùng để xác định xem liệu các nguyên vật liệu "không có xuất xứ" đã được "gia công, chế biến đầy đủ" tại Việt Nam hay chưa.
Thực tế, trong quá trình sản xuất hàng hóa, sản phẩm, có loại sản phẩm được tạo thành từ những nguyên vật liệu không rõ nguồn gốc xuất xứ hoặc khó xác định nguồn gốc xuất xứ.
Tiêu chí chuyển đổi mã số hàng hóa này cho phép doanh nghiệp có thể sử dụng 100% nguyên liệu nhập khẩu hoặc không xác định về xuất xứ trong quá trình sản xuất ra sản phẩm. Miễn là quy trình đó thỏa mãn quy định diễn ra sự chuyển đổi mã số hàng hóa và quy trình sản xuất của doanh nghiệp vượt qua công đoạn gia công đơn giản.
Trường hợp này, sản phẩm đó vẫn được cho là đáp ứng quy định về quy tắc xuất xứ.
Chẳng hạn với mặt hàng gỗ ván ép, hiện nay các doanh nghiệp đều áp dụng tiêu chí xác định quy tắc xuất xứ là "chuyển đổi mã số hàng hóa". Bởi lẽ rất khó truy xuất các loại gỗ trong tấm ván ép đó được doanh nghiệp mua từ nguồn nào, vùng nào, đơn vị nào cung cấp. Lý do là 1 tấm gỗ ván ép sản xuất ra, doanh nghiệp phải mua nguyên vật liệu qua nhiều đầu mối ở khắp các vùng miền.
Do đó trong trường hợp áp dụng tiêu chí chuyển đổi mã số hàng hóa, nguyên vật liệu làm nên tấm gỗ ván ép doanh nghiệp kể cả mua trong nước hay nhập khẩu, hoặc thậm chí doanh nghiệp ghi vào đó là không xác định xuất xứ, mua ở trong nước trôi nổi trên thị trường, vẫn thỏa mãn quy định về quy tắc xuất xứ. Tất nhiên, sản phẩm đó phải vượt qua công đoạn gia công đơn giản như đã phân tích ở trên.
Post a Comment