Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tổng giá trị xuất khẩu nông lâm thủy sản (gọi chung là nông nghiệp) năm 2020 đạt 41,25 tỷ USD, tăng 2,6% so với năm 2019. So với năm trước: giá trị xuất khẩu nhóm nông sản giảm 0,8%; chăn nuôi giảm 18,2%; thủy sản giảm 1,8%; riêng lâm sản có giá trị xuất khẩu tăng tới 16,4%.
Hiện đã có 9 nhóm mặt hàng xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD; trong đó có 5 nhóm mặt hàng có kim ngạch trên 3 tỷ USD (gỗ và sản phẩm gỗ đạt trên 12,3 tỷ USD; tôm ước đạt trên 3,7 tỷ USD; rau quả đạt gần 3,3 tỷ USD; hạt điều đạt 3,2 tỷ USD; gạo đạt 3,07 tỷ USD).
TƯƠI HỒNG NHỮNG GAM MÀU GỖ, GẠO, CAO SU
Trong bức tranh xuất khẩu ngành nông nghiệp năm 2020, nổi lên gam màu rực rỡ nhất, chính là những sắc màu được vẽ lên bởi ngành gỗ, với kim ngạch xuất khẩu gỗ và các sản phẩm từ gỗ năm 2020 đạt 12,32 tỷ USD, tăng 15,7% so với năm 2019. Hoa Kỳ, Nhật Bản và Trung Quốc là các thị trường nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ lớn nhất của Việt Nam, chiếm 78,1% trong tổng giá trị xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ.
Gam màu tươi hồng tiếp theo thuộc về ngành hàng lúa gạo. Xuất khẩu gạo năm 2020 đạt 6,15 triệu tấn và 3,07 tỷ USD, giảm 3,5% về lượng nhưng tăng 9,3% về giá trị so với năm 2019. Philippines đứng vị trí thứ nhất về thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam với 32,2% thị phần; giảm 1,7% về lượng nhưng tăng 11,8% về giá trị so với năm trước. Giá trị xuất khẩu gạo tăng mạnh ở các thị trường: Indonesia (tăng gấp 2,8 lần) và Trung Quốc (tăng 91,6%,). Giá gạo xuất khẩu bình quân năm 2020 tăng 12,9% so với năm 2019.
Về chủng loại, giá trị xuất khẩu gạo trắng chiếm 32,5% tổng kim ngạch; gạo jasmine và gạo thơm chiếm 32,9%; gạo nếp chiếm 29,6%; gạo japonica và gạo giống Nhật chiếm 4,8%. Các thị trường xuất khẩu gạo trắng lớn nhất của Việt Nam là Philippines (chiếm 53,7%), Cuba (chiếm 23,5%) và Hàn Quốc (chiếm 7,7%). Với gạo jasmine và gạo thơm, thị trường xuất khẩu lớn nhất là Bờ Biển Ngà (chiếm 31,8%), Ghana (chiếm 12,8%) và Philippines (chiếm 11,3%). Với gạo nếp, thị trường xuất khẩu lớn là Trung Quốc (chiếm 87,9%), Indonesia (chiếm 2,8%), và Philippines (chiếm 2,8%)...
Ngành cao su cũng để lại gam màu hồng, với kết quả xuất khẩu năm 2020 đạt 1,75 triệu tấn và 2,38 tỷ USD, tăng 2,8% về lượng và tăng 3,5% về giá trị so với năm 2019. Giá cao su xuất khẩu bình quân đạt 1.328,1 USD/tấn, giảm 1,53% so với năm 2019. Trung Quốc, Ấn Độ và Hàn Quốc là 3 thị trường tiêu thụ cao su lớn nhất của Việt Nam, chiếm thị phần lần lượt là 76,8%, 3,7% và 2,1%...
NHỮNG SẮC MÀU TRẦM
Các ngành hàng xuất khẩu chủ lực khác là rau, quả, chè, tiêu, điều, cà phê... đang để lại những vệt màu tối trong bước tranh xuất khẩu ngành nông nghiệp. Trong đó, giá trị xuất khẩu rau quả năm 2020 đạt 3,26 tỷ USD, giảm 13% so với năm 2019. Trung Quốc đứng vị trí thứ nhất về thị trường nhập khẩu rau quả của Việt Nam với 56,6% thị phần; giảm 25,8% so với cùng kỳ năm 2019. Thị trường có giá trị xuất khẩu rau quả giảm mạnh nhất là thị trường Lào (giảm 34,8%).
Xuất khẩu cà phê năm 2020 đạt 1,51 triệu tấn và 2,66 tỷ USD, giảm 8,8% về lượng và giảm 7,2% về giá trị so với năm 2019. Đức, Hoa Kỳ và Italia tiếp tục là ba thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của Việt Nam với thị phần lần lượt là 12,8% (đạt 319,2 triệu USD), 9,3% (đạt triệu 230,6 USD) và 8,4% (đạt 208,2 triệu USD).
Xuất khẩu tiêu năm 2020 đạt 288 nghìn tấn và 666 triệu USD, tăng 1,2% về lượng nhưng lại giảm 6,8% về giá trị so với năm 2019. Ba thị trường xuất khẩu tiêu lớn nhất của Việt Nam là Hoa Kỳ, Đức và Các Tiểu vương quốc Ảrập thống nhất chiếm 30,7% thị phần. Dự báo xuất khẩu tiêu của Việt Nam trong ngắn hạn sẽ trầm lắng khi thiếu các yếu tố hỗ trợ và do diễn biến của dịch Covid-19.
Xuất khẩu điều năm 2020 đạt 511 nghìn tấn và 3,2 tỷ USD, tăng 12,1% về lượng nhưng giảm 3% về giá trị so với năm 2019. Hoa Kỳ, Trung Quốc và Hà Lan vẫn duy trì là 3 thị trường nhập khẩu điều lớn nhất của Việt Nam, chiếm thị phần lần lượt là 31,5%, 15,6% và 12,4% tổng giá trị xuất khẩu hạt điều.
Ngành hàng thủy sản cũng chưa tìm thấy được tăng trưởng. Giá trị xuất khẩu thủy sản cả năm 2020 đạt gần 8,4 tỷ USD, giảm 1,8% so với năm 2019. Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc là 4 thị trường nhập khẩu hàng đầu của thủy sản Việt Nam, chiếm 59,8% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản. Xuất khẩu thủy sản sang thị trường Hoa Kỳ tăng 11%, Trung Quốc tăng 3,4%, EU giảm 3,8%; riêng sang Nga tăng mạnh với 25,6% so với cùng kỳ năm 2019.
NHẬN DIỆN THỊ TRƯỜNG
Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc là 4 thị trường nhập khẩu các mặt hàng nông lâm thủy sản lớn nhất của Việt Nam, với thị phần chiếm lần lượt là 26,7% (giá trị tăng 23,2% so với năm 2019); 25,1% (giá trị giảm 5,3%); 8,3% (giá trị giảm 0,8%) và 5,7% (giá giảm 0,8% so với năm 2019).
Xuất khẩu nông lâm thủy sản đang đối mặt với những thách thức ở một số thị trường. Đơn cử, như Trung Quốc, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng này sang thị trường Trung Quốc năm 2020 ước đạt 10,36 tỷ USD, giảm 5,2% so với năm 2019 và đứng thứ 2 sau Hoa Kỳ. Cùng với đó, việc phía Trung Quốc tăng cường kiểm tra nhiều lô hàng nhập khẩu nhằm kiểm soát tiềm ẩn rủi ro về lây lan dịch bệnh, quản lý chất lượng; siết chặt quản lý đối với nhập khẩu các mặt hàng nông sản chưa được phép mở cửa thị trường sẽ khiến quá trình xuất khẩu gặp nhiều khó khăn hơn.
Trong khi đó, Mỹ đã vươn lên là thị trường xuất khẩu nông lâm thủy sản lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch năm 2020 ước đạt 10,99 tỷ USD, tăng 23,3% so với cùng kỳ và chiếm gần 30% tổng kim ngạch xuất khẩu nông nghiệp. Thủy sản, gỗ và các sản phẩm gỗ, hồ tiêu, rau quả tiếp tục là những mặt hàng có lợi thế ở thị trường Mỹ. Mỹ cũng là thị trường xuất khẩu hồ tiêu lớn nhất của Việt Nam, chiếm 21,5% tổng xuất khẩu và Việt Nam tiếp tục là nguồn cung hồ tiêu lớn nhất của Mỹ, với thị phần 65,9%.
Thị trường các nước EU là thị trường lớn thứ 3 của xuất khẩu của ngành nông nghiệp Việt Nam, trong năm 2020 ước đạt 3,7 tỷ USD, giảm 3,6% so với năm trước, chiếm 8,98% trong tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành. Trong đó, gạo là mặt hàng đang có nhu cầu cao tại EU khi vào cuối năm 2020, một số quốc gia ở EU bắt đầu tiến hành phong tỏa do dịch bệnh khiến nhu cầu mua lương thực để nấu tại nhà tăng lên. EU cũng là thị trường tiêu thụ cà phê nhiều nhất của Việt Nam, chiếm 40% về lượng và 38% tổng kim ngạch xuất khẩu. EVFTA cũng đang mở ra cơ hội cho ngành hàng hồ tiêu Việt Nam trên thị trường EU khi mặt hàng hồ tiêu chế biến có mức thuế giảm xuống 0%.
TRIỂN VỌNG NĂM 2021
Kinh tế thế giới năm 2021 được dự báo sẽ diễn biến phức tạp, khó lường thể hiện ở những xung đột thương mại, cạnh tranh thị trường, công nghệ, nhân lực chất lượng cao giữa các quốc gia ngày càng quyết liệt. Việc các quốc gia ban bố lệnh phong tỏa để làm chậm tốc độ lây lan của Covid-19 phần nào đã tạo ra sự gián đoạn trong chuỗi cung ứng, lưu chuyển thương mại.
Tuy nhiên, theo dự báo của FAO, nhu cầu nông sản trên thế giới sẽ tiếp tục tăng lên 15% vào năm 2029 do gia tăng dân số lên khoảng 11% trong giai đoạn từ năm 2017 đến 2029, tiếp tục tạo cơ hội rất tốt cho nông sản Việt Nam trong việc mở rộng thị trường, thúc đẩy xuất khẩu.
Mặt khác, Việt Nam đã và đang đàm phán, ký kết và triển khai 16 hiệp định thương mại tự do (FTAs), mở ra cho nông sản Việt Nam cơ hội thâm nhập một số thị trường khó tính như Mỹ, Nhật Bản, châu Âu và tham gia các chuỗi giá trị mới trong khu vực. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề ra mục tiêu xuất khẩu ngành nông nghiệp năm 2021 đạt 42 tỷ USD; tuy nhiên, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc yêu cầu ngành nông nghiệp năm 2021 phải đem về 44 tỷ USD.
Để đạt được mục tiêu mà Thủ tướng yêu cầu, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ tiếp tục tổ chức đàm phán mở cửa thị trường, tháo gỡ khó khăn, rào cản thương mại; tổ chức xúc tiến quảng bá tại các thị trường lớn và tiềm năng khi dịch bệnh Covid-19 được kiểm soát. Tổ chức các hoạt động kết nối xuất khẩu, hỗ trợ giao thương tại các tỉnh biên giới trong nước nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông lâm thủy sản sang thị trường Trung Quốc. Tiếp tục đàm phán, tháo gỡ khó khăn, rào cản thương mại, mở cửa thị trường cho nông sản Việt Nam như hoa quả, thủy sản, sản phẩm chăn nuôi được xuất khẩu chính ngạch tại các thị trường...
Post a Comment