Mới có hai dự án có lãi, số còn lại vẫn tiếp tục khó khăn trong việc cân đối nguồn vốn để trả nợ, Bộ trưởng Bộ Công Thương cho biết kết quả xử lý 12 dự án yếu kém.
Rà soát, đánh giá tổng thể về thực trạng, mức độ thiệt hại, khẩn trương xử lý dứt điểm đối với các dự án thua lỗ, kém hiệu quả là yêu cầu của Quốc hội tại nghị quyết về chất vấn và trả lời chất vấn từ kỳ họp thứ hai (cuối năm 2016).
10 dự án lỗ 18.678,71 tỷ đồng
Báo cáo về nội dung nói trên, Bộ Công Thương cho biết, tại thời điểm 31/12/2016, tổng mức đầu tư ban đầu của 12 dự án là 43.673,63 tỷ đồng, sau đó được phê duyệt điều chỉnh tăng lên 63.610,96 tỷ đồng (tăng 45,65%). Trong đó, vốn chủ sở hữu là 14.350,04 tỷ đồng, chiếm 22,56%; vốn vay là 47.451,24 tỷ đồng, chiếm 74,6%; còn lại 2,84% là từ các nguồn khác.
Trong tổng số vốn vay thì vốn vay các ngân hàng trong nước là 41.801,24 tỷ đồng, trong đó vay Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) là 16.858,63 tỷ đồng và vay nước ngoài có bảo lãnh của Chính phủ là 6.617,24 tỷ đồng. Bao gồm các khoản nợ của 3 dự án: Công ty TNHH một thành viên công nghiệp tàu thủy Dung Quất là 84,83 triệu USD; dự án nhà máy sản xuất đạm Ninh Bình là 250 triệu USD; dự án nhà máy sản xuất bột giấy Phương Nam là 67,017 triệu Euro (các ngoại tệ này được quy đổi sang Việt Nam đồng theo tỷ giá tại các thời điểm vay).
Theo báo cáo, sau hơn 1 năm triển khai xử lý, tình hình tài chính tại các dự án, doanh nghiệp bước đầu cũng đã có một số những cải thiện, trong đó nổi bật là đã có hai dự án đã có lãi và giảm được lỗ lũy kế là dự án khai thác và tuyển quặng sắt mỏ Quý Xa và Dự án nhà máy gang thép Lào Cai (VTM) và dự án nhà máy sản xuất phân bón DAP 1- Hải Phòng.
Mặc dù vậy, các dự án, doanh nghiệp còn lại vẫn tiếp tục gặp khó khăn trong việc cân đối nguồn vốn để trả nợ và dự kiến sẽ tiếp tục phát sinh nợ quá hạn (gốc và lãi) đối với các khoản vay của Ngân hàng Phát triển, các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh đánh giá.
Cụ thể, tính đến thời điểm 31/12/2017, tổng số vốn chủ sở hữu của 12 dự án còn lại là -33,41 tỷ đồng (giảm 4.018,55 tỷ đồng so với cùng kỳ 2016). Tổng tài sản của 12 nhà máy là 58.045,74 tỷ đồng (tăng 366,72 tỷ đồng so với cùng kỳ 2016). Tổng nợ phải trả là 58.504,20 tỷ đồng (tăng 3.440,82 tỷ đồng so với cùng kỳ 2016). Tổng số lỗ luỹ kế của 10 dự án đang sản xuất hoặc đã dừng sản xuất là 18.678,71 tỷ đồng, tăng 2.552,69 tỷ đồng so với năm 2016.
Đáng ghi nhận là dự án VTM và dự án nhà máy sản xuất phân bón DAP 1 - Hải Phòng đã cắt giảm được lỗ lũy kế từ kết quả của việc tăng cường công tác quản trị, tiết giảm chi phí và giải quyết cơ bản các tồn tại, vướng mắc để ổn định sản xuất kinh doanh với mức giảm lỗ lũy kế tương ứng đối với 2 dự án là 312 tỷ đồng và 5,31 tỷ đồng so với năm 2016, báo cáo nêu rõ.
Dư nợ tín dụng vẫn cao
Về tình hình dư nợ tín dụng tại các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng, Bộ trưởng cho biết, với những chuyển biến tốt trong tình hình sản xuất kinh doanh, dư nợ cấp tín dụng đối với các chủ đầu tư có xu hướng giảm đối với dư nợ tín dụng trung, dài hạn và dư nợ tín dụng ngắn hạn. Tính đến thời điểm 31/1/2018, tổng số dư cấp tín dụng là 20.847 tỷ đồng, giảm 193 tỷ đồng so với thời điểm 28/2/2017.
Đáng lưu ý, theo Bộ trưởng là một số dự án có dư nợ cấp tín dụng giảm như dự án khai thác và tuyển quặng sắt mỏ Quý Xa và dự án nhà máy gang thép Lào Cai (giảm 466 tỷ đồng). Dự án nhà máy sản xuất đạm Ninh Bình giảm 139 tỷ đồng và dự án nhà máy sản xuất phân bón DAP số 2 - Lào Cai giảm 117 tỷ đồng.
Mặc dù vậy, Bộ trưởng đánh giá, dư nợ cấp tín dụng như trên vẫn là ở mức cao. Dư nợ tín dụng lớn nhất tại dự án nhà máy sản xuất xơ sợi Polyester Đình Vũ là 4.541 tỷ đồng (tăng 41 tỷ đồng so với thời điểm 28/2/ 2017). Tiếp đến là dự án nhà máy gang thép Lào Cai và khai thác mỏ sắt Quý Xa 4.202 tỷ đồng. Dự án nhà máy sản xuất đạm Hà Bắc là 3.785 tỷ đồng (tăng 22 tỷ đồng so với thời điểm 28 /2 /2017 do các ngân hàng cho vay vốn ngắn hạn tăng thêm 13 tỷ đồng và vốn trung, dài hạn tăng 9 tỷ đồng).
Đối với các khoản nợ tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam, theo Bộ trưởng thì đáng ghi nhận là nợ phải trả đối với VDB giảm được 6,73 tỷ đồng so với năm 2016, còn lại 10.626,20 tỷ đồng.
Báo cáo nêu rõ, đến nay, tất cả các dự án, doanh nghiệp đều đã được các ngân hàng và tổ chức tín dụng tái cơ cấu thời gian trả nợ, điều chỉnh số tiền trả nợ mỗi kỳ và điều chỉnh lãi suất cấp tín dụng đối với các khoản vay cả ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Đối với các khoản vay tại các ngân hàng thương mại của các dự án, doanh nghiệp đều được phân vào nhóm 1, ngoại trừ dự án nhà máy sản xuất phân bón DAP 2 - Lào Cai thuộc nhóm 4. Riêng đối với 6 dự án có vay vốn của VDB, có 4 dự án bị phân vào nhóm 5 là nợ xấu có khả năng mất vốn, bao gồm: dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2 nhà máy gang thép Thái Nguyên; dự án nhà máy sản xuất đạm Hà Bắc; dự án nhà máy sản xuất phân bón DAP số 2 - Lào Cai và Công ty TNHH MTV Công nghiệp tàu thủy Dung Quất.
Dự án nhà máy sản xuất đạm Ninh Bình được xếp vào nhóm 1 là nợ đủ tiêu chuẩn và dự án nhà máy sản xuất phân bón DAP số 1 - Hải Phòng được xếp vào nhóm 2 là nợ cần chú ý, Bộ trưởng báo cáo.
Post a Comment