Trong tờ trình đề nghị xây dựng Luật Đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP) trình Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, tính từ năm 1997 đến 2014, các bộ ngành và địa phương đã ký kết và thực hiện hợp đồng PPP với tổng số 193 dự án, đứng đầu là Bộ Giao thông Vận tải với 75 dự án, trong đó có 120 hợp đồng BOT, 71 hợp đồng BT.
Ước tính, vốn huy động từ khu vực tư nhân trong và ngoài nước cho phát triển hạ tầng giao thông thời gian qua ước đạt 327.100 tỷ đồng.
Từ năm 2015, số dự án PPP mới khá hạn chế, theo báo cáo của các Bộ như Công Thương, Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn thì chưa có dự án nào được triển khai dù đã có chính sách mới về PPP như Nghị định 15 của Chính phủ.
Đối với các địa phương, giai đoạn 2016 và 2020 có 18/63 địa phương đăng ký danh mục dự án PPP với 598 dự án, trong đó có 321 dự án khởi công giai đoạn 2016 và 2020, 277 dự án chuyển tiếp từ năm 2011 - 2015 sang.
Theo báo cáo của Chính phủ trình Quốc hội về Kế hoạch đầu tư công trung và dài hạn giai đoạn 2016 - 2020, tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn này từ 9,1 triệu tỷ đồng đến 9,7 triệu tỷ đồng.
Trong đó, vốn ngân sách Nhà nước chỉ đóng góp khoảng 2 triệu tỷ đồng, còn lại chủ yếu là vốn của khu vực dân cư và doanh nghiệp (xã hội hoá) đóng góp vào khoảng từ 4,3 triệu đến gần 5 triệu tỷ đồng, chiếm gần 50% tổng vốn đầu tư.
Về khả năng thu hút được vốn cho các dự án PPP giai đoạn 2016 - 2020, Bộ Kế hoạch và Đầu tư ước tính cần 254.054 tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách Nhà nước (làm đối ứng và vốn mồi) khoảng 16.800 tỷ đồng, còn lại hơn 237.000 tỷ đồng do các doanh nghiệp tự huy động.
Điều này đặt ra áp lực lớn để thu hút nguồn lực ngoài ngân sách. Tuy nhiên, thời gian qua chính sách về PPP chưa hiệu quả, hệ lụy của BOT đang để lại "dư âm" không tốt đẹp khiến nhiều dự án bị đình lại, các tỉnh ngại BOT và các nhà đầu tư cũng sợ thay đổi chính sách.
Hàng loạt vướng mắc như đang đặt ra như: Quy định dự án PPP có sử dụng vốn đầu tư công nhà nước thì phải lập hội đồng phê duyệt. Tuy nhiên, nhiều dự án PPP chỉ sử dụng 1% vốn nhà nước và vẫn chịu các quy định trình tự thủ tục dự án nhóm A - phải báo cáo chủ trương lên Thủ tướng quyết định. Điều này làm phát sinh thêm thủ tục và chậm tiến độ dự án trong khi đó bản thân các dự án này đều do tư nhân đứng ra chủ động làm.
Thêm nữa, những hạn chế, rủi ro của hình thức đầu tư BT (xây dựng chuyển giao) để đổi đất lấy hạ tầng hoặc quyền kinh doanh của doanh nghiệp cũng đang khiến doanh nghiệp sợ hãi và thực tế minh chứng không phải dự án nào các bên cũng cũng "xuôi chèo, mát mái".
Quỹ đất thanh toán cho các dụ án và nhà đầu tư BT ngày càng hạn chế, trong khi đó hình thức thanh toán cho nhà đầu tư BT là từ quyền kinh doanh dự án thương mại khác không áp dụng được hoặc không hiệu quả, khiến các doanh nghiệp không mặn mà.
Đặc biệt, Bộ Kế hoạch và Đầu tư nêu một ví dụ cụ thể về quy định "quyết toán" công trình dự án PPP sau khi hoàn thành giai đoạn xây dựng hiện vẫn được áp dụng như các dự án đầu tư công. Điều này không đảm bảo khoa học, vì bản chất PPP là nhà nước lựa chọn nhà đầu tư để đầu tư xây dựng vận hành dự án trong suốt vòng đời 20 - 30 năm, hoàn toàn khác với các dự án sử dụng vốn nhà nước để thi công.
Chính vì việc "quyết toán" công trình theo quy định của vốn đầu tư công, vô tình gây bất cập, bức xúc dư luận.
Kinh nghiệm quốc tế tại Hàn Quốc cho thấy, giá công trình là trọn gói và không quyết toán chi phí xây dựng, Nhà nước kiểm soát qua bộ chỉ số yêu cầu về chất lượng công trình/dịch vụ được quy định tại hợp đồng dự án. Đồng thời, Luật PPP tại các nước khác hầu hết cũng không có quy định "quyết toán" chỉ quy định về nghiệm thu công trình.
"Với nhu cầu vốn lớn như vậy nhưng khung pháp lý cho PPP còn rất nhiều vướng mắc, nếu không có thay đổi sẽ không thể thu được nguồn lực như dự tính", Bộ Kế hoạch và Đầu tư khẳng định.
Post a Comment