Vì nhiều bạn đọc hỏi (và chửi) vì sao tôi thỏa mãn đến thế khi ông Đoàn Ngọc Hải ra đi. Tôi sẽ lấy câu chuyện của Singapore làm mở đầu cho phần tranh luận này, đúng như ước mơ của các lãnh đạo, là làm TPHCM thành một Singapore tương lai – hay một ước mơ đầy mỉa mai của những thị dân háo hức và cấp tiến ở đây.
Trong một Fact Sheet của Hội đồng lập pháp Hong Kong (2), về lịch sử của hàng rong ở Singapore, nơi được mô tả là trong thập niên 1950-1960 là có tỷ lệ thất nghiệp cao, dẫn đến việc nhiều người cần phải ra đường bán hàng rong mưu sinh. Hàng rong đem đến hàng hóa rẻ, đồ ăn, trái cây, đồ tươi, hàng sinh hoạt, báo chí, nhu yếu phẩm. Giá mềm. Thò chân đi xuống là mua được.
Đi kèm theo hàng rong với đó là các nguy cơ y hệt Việt Nam như: mất vệ sinh, nguy cơ lây lan các bệnh về thực phẩm, vệ sinh, sức khỏe công cộng, là nơi gây bùng phát dịch tả và bệnh thương hàn, là nơi dung chứa các loại như muỗi, bọ… vì mất vệ sinh. Và cũng giống Việt Nam, nó làm tắc đường và lấn chiếm vỉa hè. Đây cũng chính là lý do khiến các thị dân đang bực mình vì hàng rong ở Sài Gòn rất mực ủng hộ ông Hải trong chiến dịch của ông. Họ muốn có lại vỉa hè, có lại sự sạch sẽ khi hàng rong chưa xuất hiện.
Tuy nhiên, ở giai đoạn này, chính quyền Singapore cũng làm những vụ bắt bớ, thu giữ đồ đạc của người hàng rong, phá hỏng và đập đồ của họ (trang 3 – nghiên cứu của Azhar Ghani – Học viện Nghiên cứu Chính Sách – NUS – Singapore – chú thích (4). Cùng với đó là chế độ cấp giấy phép, nhưng chỉ có 1/3 số người bán hàng rong đăng ký giấy phép này.
Chính sách của chính quyền Singapore khi ấy không được công chúng ủng hộ (4), vì rất nhiều người dân thông cảm rất nhiều với những người nghèo đang phải mưu sinh trên đường. Con cái của họ cũng tham gia vào việc nấu ăn, bán hàng. Một số nghiên cứu được trích dẫn tại đây cho thấy hàng rong trở thành mưu sinh của rất nhiều người và gia đình, mà việc loại bỏ họ là điều không thể.
Nhà nghiên cứu Azhar Ghani cũng viết: “Trò chơi mèo vờn chuột liên tục này giữa những người bán hàng rong và chính quyền làm sinh ra nhiều vấn đề khác, như người bán hàng rong sẽ hối lộ cảnh sát hay trả tiền bảo kê cho các băng nhóm và thế giới ngầm để thoát khỏi của cảnh sát hoặc các cuộc trấn áp quy mô và các cuộc bắt bớ lớn.”
Từ 1968 -1969, chính phủ Singapore tiến hành một đợt đăng ký lớn, làm bước đầu tiên để hợp pháp hóa hàng rong. 18.000 xe hàng rong đã được đăng ký trong giai đoạn này. Sau đó, họ được yêu cầu dời vào những vỉa hè ít đông đúc hơn, đứng bán trong làn xe trong, hoặc trong bãi gửi xe, vào các giờ quy định. Lúc này, các đợt trấn áp song song tiếp tục bắt giữ các xe hàng rong bán không đăng ký.
ĐĂNG KÝ XONG THÌ BÁN Ở ĐÂU?
Sau khi đăng ký, việc thiết lập nơi nào cho người bán hàng rong là một vấn đề. Người bán hàng rong không muốn bị đẩy tới những khu xa xôi, không có khách hàng. Họ muốn bán ở nơi họ đã bắt đầu tụ lại buôn bán, nơi khách tiện đường ghé qua đông, và có những người mua đã quen nhiều năm.
Ở điểm này, Ban Phát triển và Nhà ở (HDB) Singapore cho rằng tái định cư những người bán hàng rong này phải gần các nơi bán hàng ban đầu của họ. Khi đó, các tòa nhà mới được xây, HDB s4 xây luôn chợ và khu hàng rong gần đó. Khi các tòa nhà bắt đầu có người ở, hàng rong cũng sẽ có thể vào bán. Quá trình này diễn ra từ 1974 -1979, 54 trung tâm bán hàng rong được xây trong vòng 9 năm ở Singapore. (trang 10 – chú thích 4).
Ông Lý Quang Diệu nói: “Trong nhiều năm, chúng ta đã không thể làm sạch thành phố bằng cách loại bỏ những xe hàng rong trái luật và taxi dù. Chỉ sau năm 1971, khi chúng ta đã tạo ra nhiều việc làm, chúng ta mới có thể áp dụng luật pháp và giành lại đường phố. Chúng ta cấp giấy phép cho thực phẩm bán trên đường phố, di dời họ khỏi đường xá và vỉa hè và đưa họ đến những trung tâm hàng rong được xây dựng đúng mực gần đó, với nước máy, cống thải, và nơi thải rác. Vào đầu thập niên 1980, chúng ta đã tái định cư lại toàn bộ người bán hàng rong.” (trang 6, 7 – chú thích 4).
Ngày nay, Singapore có 107 trung tâm bán hàng rong, với 15.000 quầy hàng. Các quầy hàng này đều gần các khu nhà ở hoặc các điểm nút giao thông lớn. (trang 2- chú thích 2)
Toàn bộ quy trình trên diễn ra từ thập niên 1950 đến 1980, 30 năm tròn giữa nghiên cứu, thỏa thuận, cân đong chính sách, giáo dục người bán hàng rong – tầng lớp nghèo khó của Singapore, tìm hiểu về số miệng ăn trong gia đình họ, lao động trẻ em trong nhà (và các nghiên cứu trong thập niên 1970 chỉ ra chỉ có 12% người bán hàng rong thuê người phụ việc bên ngoài, còn lại là toàn gia đình làm việc để mưu sinh, nên một chính sách hàng rong sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ gia đình và trẻ con – trang 6, chú thích 4). Những người “vung cẩu” giống ông Hải đã thất bại từ thập niên 1950 để buộc họ phải nhìn lại mọi thứ nghiêm túc hơn.
THÁI LAN VÀ MUMBAI THÌ SAO?
Tại Thái Lan, vào năm 2013, có 20.000 quầy hàng rong đăng ký, và đóng tiền hàng tháng cho Chính Quyền Trung tâm Bangkok dọn dẹp vệ sinh và duy tu các con đường có hàng rong. Chính quyền cũng quy định giờ bán hàng rong. Như các con đường Ratchadamri hoặc Tha Phrachan được yêu cầu dẹp ra để có lề đường cho người đi bộ đi từ 5 giờ chiều đến 7 giờ tối. Ratchadamri là đường ở trung tâm và rất nổi tiếng với du khách và có đông sinh viên ở khu vực này qua lại. (3)
Nếu ai đến Thái Lan – cụ thể là Bangkok – nhiều sẽ biết hàng tuần vào thứ hai, các quầy bán hàng rong ngon sẽ nghỉ bán. Vì cũng vào năm 2013, chính quyền Bangkok quy định ngày thứ Hai là ngày dọn dẹp đường, nên người bán hàng rong phải nghỉ. – Chú thích (3),(7)
Vỉa hè trở thành một ngành kinh tế quan trọng đi kèm với du lịch, đặc biệt là ở Bangkok, nơi phần lớn là du lịch mua sắm và nightlife. Sau khủng hoảng kinh tế năm 1997, một tầng lớp có học thức phải nghỉ việc vì khủng hoảng cũng đã “xuống đường” buôn bán, và tạo hình thành gương mặt đa dạng và thú vị của hàng rong vỉa hè Bangkok ngày nay. (3)
Quay trở lại bán ở đâu, tại sao Singapore coi chuyện “bán hàng ở đâu” là quan trọng với người hàng rong? Như đã đề cập ở trên, người bán hàng rong muốn bán ở các nơi quen thuộc, thường là trung tâm, nơi họ có đông khách quen, nhiều người qua lại, và họ sẽ dễ dàng chống lại lệnh đổi chỗ (dù đã đăng ký) nếu không được bán ở nơi ban đầu, hoặc gần chỗ đông khách. Năm 2016, khi chính quyền Bangkok bất ngờ… đổi ý dẹp sạch hàng rong quanh các khu chợ lớn ở trung tâm Siam, Ratchadamri, Pratunam… và một số chợ đêm được yêu cầu dời về rất xa so với trung tâm, thì người bán hàng rong đã chống lại lệnh này và có biểu tình ở trung tâm Bangkok bởi các khu chợ mới được tái định cư không hứa hẹn có nhiều khách mua hàng.
Sau 1 năm thực hiện, trên các báo về du lịch, du khách phương Tây và Trung Quốc đặt câu hỏi về việc họ sẽ chơi gì khi đến Bangkok nếu không có chợ hàng rong để mua sắm và ăn uống. Tới giờ vấn đề đó chưa được giải quyết, nhưng sự tổn thương mà ngành du lịch hứng chịu là có thật.
Mumbai ở Ấn Độ cũng gặp tình trạng tương tự, khi họ xây một trung tâm hàng rong cao 5 tầng lầu, với ý định đưa dân bán hàng rong từ khu vực khác tới. Nhưng rất ít người bán hàng rong muốn đến bán ở đây, vì khách hàng chả bao giờ muốn đến cái plaza đó, xong trèo lên 5 tầng lầu mua hàng, thay vì mua bán ở gần nhà ga xe lửa Dadar cho đơn giản. Hầu hết các quầy hàng ở Hawkers Plaza tại Mumbai không có ai vô bán trong 12 năm, trừ những quầy ở tầng trệt. (5)
VẬY ÔNG HẢI ĐÃ LÀM GÌ?
Ở Sài Gòn, nơi đang có khao khát mãnh liệt… giống Singapore, người đọc mà tôi biết đổ lỗi hàng rong làm tắc nghẽn đường, kẹt xe, bẩn thỉu, đẩy người đi đường xuống lề đường. Nên ông Hải làm là đúng.
Lý do tôi cho rằng việc này không đúng là vì nó hoàn toàn được nhìn từ tâm lý của những thị dân có việc làm trong văn phòng, có nơi kiếm sống ổn định và cảm thấy khó chịu vì sinh cảnh của họ bị đe dọa. Nó không hề nhìn từ góc độ rằng tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam ra sao, tỷ lệ người lao động từ nông thôn đổ về đô thị thế nào, và bao nhiêu người đang sống dựa trên mô hình này. Cách tiếp cận này chính là điều Singapore làm – không phải đổ lỗi và vung cẩu lên có thể đẩy người bán hàng rong khỏi vỉa hè – mà là đưa họ vào hành lang pháp lý, cung cấp cho họ sinh kế tương đương, mới có thể “đẩy” họ tự nguyện rời khỏi vỉa hè.
Anh Hải Cẩu của các bạn, anh ấy có tiếp cận mọi thứ như thế không? – Không, anh ấy vung cẩu lên và múc tất cả đi. Nó giống như “trò chơi mèo vờn chuột” mà nhà nghiên cứu ở NUS đề cập ở trên. Nó sẽ chả giải quyết gì hết. Nó khiến người nghèo căng thẳng hơn và dữ dội hơn để chiến đấu nếu nồi bún của họ bị đạp đổ. Chả giải quyết được gì hết.
Tôi nói điều này vì sao, vì chiến dịch vỉa hè của ông ta tiến hành từ tháng 1 – 10/2017, nhưng mãi đến tháng 3/2017, báo Thanh Niên mới cho biết TPHCM mới giao “Viện Nghiên cứu phát triển TP phối hợp với Sở GTVT và UBND quận, huyện hoàn thành đề án quy hoạch các khu vực được phép kinh doanh buôn bán trên vỉa hè…” (6) -Ồ, họ đã vội vã đi nghiên cứu sau ba tháng đập tanh bành xung quanh, thật là cầu thị.
Vậy hành động “cẩu” và phá này có tiếp cận từ cái nhìn muốn thực sự chỉnh trang lại đô thị văn minh hay không? – Không, nó diễn ra một cách vội vã, lộn xộn sau hai tháng đập phá om sòm. Đoàn Ngọc Hải không mang gương mặt của một chính quyền muốn văn minh, mà nó thể hiện hành vi của một người quản lý dân túy thích ý mình sao thì làm cái đó, và nó làm hài lòng một nhóm người hú hồn vì may quá mình có nhà ở an ổn và vui lòng vì hàng rong nên được dẹp đi cho đẹp mắt. Trường hợp này rất giống với Duterte ở Philippines, mày nghiện ma túy thì tao bắn mày. Những người không nghiện thì rất vuôi lòng. Nhưng người nghiện ma túy có phải là tội phạm đáng bị tử hình không?- Cái đó không nằm trong pháp luật.
Ngoài ra, một lượng lớn vỉa hè tại đô thị ở VN không hề do người hàng rong chiếm, mà là do chính các tòa nhà, công ty, quán cafe, quán nhậu… trả tiền bảo kê cho các thế lực địa phương và… tha hồ đậu xe tùy thích. Mười người bán hàng rong có thể ngồi ở một góc Hồ Con Rùa và lấn chiếm một đoạn vỉa hè. Một quán cafe ở đường bên kia của Hồ Con Rùa cũng chiếm sạch một quãng vỉa hè để đậu xe. Chuyện này, tôi không có số liệu nên không chắc ai đang đẩy các bạn thị dân xuống lòng đường cho xe bang vô.
Một chuyện khác, đó là, nếu thị dân nhìn người bán hàng rong như những sinh vật cần loại trừ, có lẽ họ cũng cần phải tính tới các phần khác trong đời sống của mình được đóng góp ra sao từ thành phần kinh tế này. Một kiến trúc sư từng nói với tôi: “Khi xây các khu căn hộ cao cấp ở trung tâm, người ta không hề nghĩ đến chuyện làm sao để người nghèo chung sống hòa bình với họ trong đô thị. Và khi Tết đến, lúc họ phải về quê, cần người giúp việc, tỉa cây, chăm sóc thú cưng, họ chẳng thể tìm được ai. Bởi vì họ đã đẩy sạch người nghèo ra khỏi những khu vực đó rồi, ai mà phục vụ họ nữa.” – Anh là một kiến trúc sư chuyên về thiết kế nhà ở văn minh cho người thu nhập thấp trong đô thị.
Và cuối cùng, hành vi của ông Hải trong 10 tháng đó, nó có hợp pháp tới mức nào – nếu xét trên quan điểm ông ta là một người đang thực thi pháp luật, tôi nghĩ bạn có thể đọc qua bài của Luật gia Trịnh Hữu Long trên Luật Khoa Tạp Chí: https://www.luatkhoa.org/2017/02/xa-luan-ong-quan-pho-thuong-ton-hay-khong-thuong-ton-phap-luat/
Nếu muốn Việt Nam giống Singapore, như nhà nghiên cứu Kỷ Quang Vinh nói, “không nên cưỡi ngựa xem hoa rồi về trồng hoa mà phải học tập nghề trồng hoa thực sự nghiêm túc.” –
“Trồng hoa” hàng rong ở Singapore mất tới 30 năm và đủ các thỏa thuận giữa người dân và chính quyền. “Trồng hoa” ở Bangkok từ 2005, tới nay còn be bét. Mấy bạn muốn trồng hoa trong 10 tháng bằng cẩu hả?
Chúc may mắn lần sau.
Khải Đơn
==========
Chú thích:
(1) https://www.researchgate.net/publication/312028122_Street_vending_policies_and_practices_A_case_study_of_Bangkok
(2) http://www.legco.gov.hk/research-publications/english/1314fs10-hawker-policy-in-singapore-20140526-e.pdf
(3) http://www.legco.gov.hk/research-publications/english/1314fs12-hawker-policy-in-thailand-20140612-e.pdf
(4) http://lkyspp2.nus.edu.sg/ips//wp-content/uploads/sites/2/2013/04/AG_history-of-hawkers_010511.pdf
(5) https://scroll.in/article/675489/what-mumbai-could-learn-from-singapores-street-hawker-policies
(6) https://thanhnien.vn/viet-nam/quy-hoach-via-he-cho-kinh-doanh-ban-hang-rong-816722.html
(7) đọc thêm về case Bangkok: https://www.researchgate.net/publication/312028122_Street_vending_policies_and_practices_A_case_study_of_Bangkok
Post a Comment