Bảo lãnh thông quan góp phần rút ngắn thời gian thông quan hàng hóa, giảm chi phí cho doanh nghiệp, tạo điều kiện mở rộng loại hình kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam, song vẫn còn nhiều doanh nghiệp e ngại với hình thức này.
Tốt nhưng doanh nghiệp vẫn e ngại
Bảo lãnh thông quan là một hình thức cam kết bảo lãnh về mặt tài chính mà cơ quan Hải quan yêu cầu đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu khi chưa hoàn thành thủ tục hải quan theo quy định, nhưng mong muốn được giải phóng hàng hóa, thông quan hàng hóa.
Bảo lãnh thông quan đã được phát triển qua rất nhiều thập kỷ dưới nhiều loại hình bảo lãnh khác nhau dùng cho nhiều mục đích chi tiết khác nhau.
Tại nhiều nước phát triển như Hoa kỳ, Canada, Phần Lan, Thụy Điển… bảo lãnh thông quan đã được phát triển thành công cụ hữu hiệu, không chỉ trong tạo thuận lợi thương mại xuất nhập khẩu hàng hóa mà còn để kiểm soát ngăn chặn buôn lậu và bảo đảm tính tuân thủ của các đối tượng tham gia hoạt động xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh hàng hóa.
Tại Việt Nam, theo quy định tại Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, trong trường hợp hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thuộc đối tượng chịu thuế, người nộp thuế được lựa chọn nộp thuế ngay hoặc có bảo lãnh thuế trước khi thông quan, giải phóng hàng và phải nộp tiền chậm nộp trong thời gian bảo lãnh.
Trong trường hợp hàng hóa kinh doanh tạm nhập, tái xuất, người khai hải quan được lựa chọn có bảo lãnh thuế hoặc đặt cọc tiền thuế.
Tuy nhiên, Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu không quy định tổ chức kinh doanh dịch vụ bảo hiểm được thay mặt chủ hàng đứng ra bảo lãnh về số tiền thuế phải nộp hoặc bảo lãnh việc chấp hành các chính sách về thuế, sử dụng hàng hóa đúng với mục đích được miễn thuế, không chịu thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thuộc các loại hình khác như: tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập, gia công, sản xuất xuất khẩu, doanh nghiệp chế xuất, quá cảnh,…
Luật Hải quan năm 2014 cũng có quy định về việc thông quan, giải phóng hàng và đưa hàng về bảo quản, trong đó đều có yêu cầu người khai hải quan phải nộp thuế hoặc được tổ chức tín dụng bảo lãnh số thuế.
Tuy nhiên, cũng như Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và Luật Hải quan cũng chưa có Điều khoản quy định cho tổ chức kinh doanh dịch vụ bảo hiểm được thay mặt chủ hàng đứng ra bảo lãnh về số tiền thuế phải nộp hoặc bảo lãnh việc chấp hành các chính sách về kiểm tra chuyên ngành trong thời gian hàng hóa đưa về bảo quản tại địa điểm do người khai hải quan đề nghị để chờ kết quả kiểm tra chuyên ngành.
Trên thực tế, hiện nay nhiều ngân hàng thương mại đã thực hiện kết nối, thanh toán điện tử với cơ quan hải quan và phần lớn các ngân hàng này đều được thực hiện bảo lãnh về số tiền thuế phải nộp cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, các doanh nghiệp vẫn còn khá e ngại với hình thức mới này.
Nguyên nhân, theo lý giải của cơ quan hải quan, là trong thời gian bảo lãnh, ngoài số tiền phí bảo lãnh phải nộp cho ngân hàng, người nộp thuế phải nộp tiền chậm nộp theo mức 0,03%/ngày.
Bên cạnh đó, các quy trình, thủ tục để được cấp bảo lãnh ngân hàng vẫn còn phức tạp do phải có tài sản đảm bảo.
Chính vì vậy số lượng doanh nghiệp lựa chọn hình thức bảo lãnh thuế hiện nay vẫn còn rất thấp, như năm 2017 là chưa đến 1% tổng số thu ngân sách nhà nước.
Thí điểm áp dụng bảo lãnh thông quan
Dựa trên tình hình thực tiễn, Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan đang nghiên cứu, xây dựng Đề án thí điểm thực hiện cơ chế bảo lãnh thông quan đối với một số mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu thuộc diện kiểm tra chuyên ngành.
Việc bảo lãnh có thể được thực hiện dưới hình thức bảo lãnh chung hoặc bảo lãnh riêng.
Trong đó, bảo lãnh chung là việc tổ chức phát hành bảo lãnh cam kết thực hiện đầy đủ nghĩa vụ về thuế, phí, các khoản tiền phạt, các biện pháp khắc phục cho nhiều tờ khai hải quan của một doanh nghiệp trong một khoảng thời gian nhất định.
Bảo lãnh riêng là việc tổ chức phát hành bảo lãnh cam kết thực hiện đầy đủ nghĩa vụ về thuế, phí, các khoản tiền phạt, các biện pháp khắc phục cho một tờ khai hải quan.
Đặc biệt, theo dự thảo thì doanh nghiệp sẽ không nhất thiết phải có tài sản để đảm bảo cho khoản tiền phải thế chấp.
"Các tổ chức bảo hiểm sẽ phân tích lịch sử hoạt động, khả năng chi trả của doanh nghiệp thay vì chỉ nhìn vào số tài sản của họ. Như vậy, cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp sẽ nhiều hơn", ông Mai Xuân Thành, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan cho biết.
Theo Dự thảo, trong giai đoạn đầu triển khai thí điểm, cơ chế bảo lãnh thông quan sẽ lựa chọn áp dụng đối với một số loại hình trên cơ sở kế thừa các hình thức bảo lãnh đã được áp dụng, đồng thời thí điểm đối với một số loại hình mới và mở rộng đối tượng tham gia vào hoạt động bảo lãnh.
Cụ thể, sẽ bao gồm hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thuộc đối tượng chịu thuế phải nộp thuế trước khi thông quan hoặc giải phóng hàng; hàng hóa kinh doanh tạm nhập, tái xuất trong thời hạn tạm nhập, tái xuất; hàng hóa quá cảnh lãnh thổ Việt Nam, trừ hàng hóa thuộc Danh mục cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu.
Hay hàng hóa nhập khẩu thuộc trường hợp được chậm nộp chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa theo quy định; hàng hóa nhập khẩu chờ kết quả xác minh từ cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa nước xuất khẩu.
Hoặc hàng hóa nhập khẩu thuộc Danh mục hàng hóa có khả năng gây mất an toàn theo quy định của Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa và thuộc trường hợp nộp kết quả kiểm tra nhà nước về chất lượng trước khi thông quan.
Theo dự thảo, giai đoạn thí điểm dự kiến bắt đầu từ năm 2021. Căn cứ vào kết quả thí điểm thực tế, sau thời gian dự kiến khoảng 2 năm Bộ Tài chính sẽ báo cáo sơ kết, đánh giá kết quả thực hiện thí điểm và đề xuất triển khai mở rộng thí điểm đối với các loại hình tạm nhập tái xuất khác như tham dự hội chợ triển lãm, sửa chữa bảo dưỡng, bảo hành; thi công công trình…; bảo lãnh cho đưa về bảo quản để chờ cấp giấy phép nhập khẩu của các Bộ, ngành đối với một số mặt hàng, lĩnh vực…
Sau hai giai đoạn thí điểm, Bộ Tài chính sẽ tổ chức đánh giá tình hình, trình các cấp để hoàn thiện cơ sở pháp lý (Luật, Nghị định, Thông tư) và Hệ thống công nghệ thông tin để triển khai chính thức Hệ thống bảo lãnh thông quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu của các loại hình khác.
Việc triển khai thí điểm theo các giai đoạn trên đây sẽ được áp dụng đối với các chủng loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thuộc loại hình triển khai thí điểm, của các doanh nghiệp khi làm thủ tục hải quan nhằm thực hiện đồng bộ, thống nhất tại đơn vị hải quan các cấp, không phân biệt loại hình doanh nghiệp.
Theo kế hoạch, Đề án sẽ được lấy ý kiến, hoàn thiện, gửi Bộ Tư Pháp thẩm định và báo cáo chính phủ trong tháng 12/2019; Gửi Ủy ban của Quốc hội để thẩm tra và trình Ủy ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến vào tháng 3/2020, trình Quốc hội cho ý kiến và thông qua tại Kỳ họp thứ 9 vào tháng 5/2020.
Post a Comment