21 tập đoàn, tổng công ty có quy mô lớn của Nhà nước đã có tên trong danh sách doanh nghiệp nhà nước thuộc diện chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước từ các bộ, ngành về Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
Đây là nội dung được đưa ra trong Dự thảo Nghị định quy định về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp đang được đưa ra lấy ý kiến.
Siêu ủy ban quản lý 5 triệu tỷ đồng
Theo đó, đứng đầu danh sách là Tổng Công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC). SCIC sẽ không còn thuộc Bộ Tài chính mà sẽ được chuyển về "siêu ủy ban" và chịu sự quản lý của cơ quan này.
Tuy nhiên, SCIC vẫn là "siêu doanh nghiệp" khi tiếp tục là cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại các doanh nghiệp thuộc đối tượng được chuyển giao từ các bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
20 doanh nghiệp còn lại là các công ty mẹ các tập đoàn, tổng công ty thuộc diện Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc có cổ phần chi phối lâu dài, đang thuộc quyền đại diện chủ sở hữu nhà nước của các Bộ Công Thương, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Thông tin và Truyền thông, Giao thông Vận tải.
Trong đó gồm 7 tập đoàn, bao gồm Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam, Tập đoàn Hóa chất Việt Nam, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tập đoàn công nghiệp cao su Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp than khoáng sản Việt Nam, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam.
Đồng thời, gồm 13 tổng công ty có quy mô lớn như Tổng công ty Viễn thông VTC, Tổng công ty Viễn thông MobiFone, Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam, Tổng công ty Hàng không Việt Nam, Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam, Tổng công ty Đường sắt Việt Nam, Tổng công ty Đầu tư phát triển đường cao tốc Việt Nam, Tổng công ty Đầu tư phát triển và Quản lý dự án hạ tầng giao thông Cửu Long, Tổng công ty Cảng Hàng không, Tổng công ty Cà phê Việt Nam, Tổng công ty Lương thực miền Nam, Tổng công ty lương thực miền Bắc, Tổng công ty Lâm nghiệp Việt Nam.
Ước tính, giá trị vốn chủ sở hữu nhà nước tại 21 tập đoàn, tổng công ty này tương đương 50% tổng giá trị vốn chủ sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước. Dự kiến, "siêu ủy ban" sẽ quản lý khối lượng vốn lên tới 5 triệu tỷ đồng.
Kinh doanh vốn nhằm phát triển kinh tế
Để quản lý được nguồn vốn khổng lồ này, Ban soạn thảo Dự thảo Nghị định đề xuất hình thành các vụ quản lý chuyên ngành dựa trên việc phân chia theo nhóm ngành kinh doanh chính của doanh nghiệp (Vụ Quản lý vốn tại doanh nghiệp nông nghiệp; Vụ Quản lý vốn tại doanh nghiệp công nghiệp chế tạo; Vụ Quản lý vốn tại doanh nghiệp năng lượng; Vụ Quản lý vốn tại doanh nghiệp công nghệ thông tin, viễn thông, truyền thông; Vụ Quản lý vốn tại doanh nghiệp xây dựng và hạ tầng) và các Vụ tham mưu theo chức năng (Vụ Chiến lược và phát triển; Vụ Quản trị tài chính và rủi ro; Vụ Pháp chế, kiểm soát nội bộ; Vụ Tổ chức, nhân sự và đào tạo).
Ngoài ra, để Ủy ban thực hiện các nhiệm vụ đặc thù được giao, Dự thảo kiến nghị Bộ Tài chính ban hành văn bản hướng dẫn hoạt động tài chính của Ủy ban theo 3 nguyên tắc.
Thứ nhất, ngân sách nhà nước đảm bảo chi phí thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban, bao gồm cả chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên.
Thứ hai, nguồn chi ngân sách nhà nước được cân đối trong khoản thu ngân sách nhà nước từ cổ phần hoá, sắp xếp, thoái vốn nhà nước, cổ tức, lợi nhuận sau thuế của các doanh nghiệp do Ủy ban làm đại diện chủ sở hữu.
Thứ ba, bên cạnh chế độ tiền lương theo quy định, cơ quan chuyên trách có phần thu nhập bổ sung gắn với hiệu quả quản lý vốn nhà nước và năng suất lao động của các doanh nghiệp do Ủy ban làm đại diện chủ sở hữu.
Theo Ban soạn thảo, Dự thảo đưa ra kiến nghị như vậy vì Ủy ban là một tổ chức đặc biệt của Chính phủ, vừa là cơ quan thuộc Chính phủ, vừa là một cơ quan đại diện chủ sở hữu có nhiệm vụ quản lý, đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước.
Việc thành lập mô hình "siêu ủy ban" đang được kỳ vọng là sẽ khắc phục được những hạn chế, bất cập của mô hình cơ quan đại diện chủ sở hữu hiện nay; đồng thời, cũng góp phần tạo điều kiện cho các bộ, Ủy ban nhân dân làm tốt hơn nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước, góp phần cải thiện môi trường kinh doanh và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường.
Tuy vậy, nhiều chuyên gia cũng bày tỏ lo ngại về một mô hình còn quá mới mẻ với Việt Nam cho dù đã không còn mới trên thế giới; nhất là trong bối cảnh cơ quan này sẽ chịu trách nhiệm quản lý nguồn vốn "khủng" của các doanh nghiệp Nhà nước có quy mô lớn.
Đó còn là những lo lắng xung quanh quá trình chuyển giao doanh nghiệp về cơ quan chủ quản mới và đặc biệt là việc thực hiện nhiệm vụ đầu tư phát triển vào những ngành, lĩnh vực có tính chiến lược, dẫn dắt và lan tỏa cho nền kinh tế theo yêu cầu.
"Bởi suy cho cùng, quản lý vốn là một chuyện; chuyện kinh doanh vốn sau quá trình cổ phần hoá, sắp xếp, thoái vốn nhà nước... để thúc đẩy nền kinh tế phát triển mới là cái đích cuối cùng", một vị chuyên gia kinh tế chia sẻ.
Post a Comment