2019 là một năm đánh dấu nhiều mốc lịch sử với nền kinh tế - xã hội Việt Nam. GDP tăng trưởng ấn tượng ở mức 7,02%, vị thế Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao với sự ủng hộ vượt ra mốc tối thiểu 192/193 phiếu bầu và chính thức trúng cử vào ghế uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021. 

2019 còn là một năm vẻ vang của thương mại Việt Nam với kỳ tích xuất nhập khẩu thiết lập kỷ lục mới kim ngạch đạt 516,96 tỷ USD, con số này giúp Việt Nam lọt top 30 quốc gia có tăng trưởng xuất nhập khẩu tốt nhất thế giới. Xét riêng lĩnh vực xuất khẩu, Việt Nam đã trở thành nền kinh tế có quy mô xuất khẩu đứng thứ 22 trên thế giới.

Bình luận về những thành tựu này, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng nói: "Vai trò, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được khẳng định và nâng cao, ngày càng dành được sự ủng hộ, đánh giá cao của cộng đồng quốc tế, góp phần thực hiện nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích của đất nước".

Vị thế và uy tín Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế

Gây ấn tượng nhất với Bộ trưởng là thành tựu nào của nền kinh tế trong năm vừa qua? 

Đầu tiên phải nhắc đến duy trì nền tảng, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô trong điều kiện thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế biến động mạnh; kiểm soát lạm phát ở mức thấp; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế khá cao (mức cao do Quốc hội giao), thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao của khu vực và thế giới; củng cố và mở rộng các cân đối lớn của nền kinh tế.

Cơ cấu lại nền kinh tế thực chất hơn. Môi trường kinh doanh tiếp tục được cải thiện. Năm 2019, theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế Thế giới, Việt Nam lần đầu tiên vươn lên trong nửa trên của bảng xếp hạng thế giới, vị trí 67/141 nền kinh tế được xếp hạng (tăng 10 bậc so với năm 2018), xếp thứ 8 trong số các nền kinh tế tốt nhất thế giới để đầu tư (tăng 15 bậc so với năm 2018).

Vai trò, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được khẳng định và nâng cao, ngày càng dành được sự ủng hộ, đánh giá cao của cộng đồng quốc tế, góp phần thực hiện nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích của đất nước.

Thưa Bộ trưởng, có được những thành tựu ấn tượng trên là nhờ đâu?

Tôi xin nhấn mạnh 3 nguyên nhân chủ yếu, gồm: Bảo đảm chủ quyền quốc gia, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, môi trường hòa bình, tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước; kế thừa và phát huy những thành tựu to lớn, quan trọng, có ý nghĩa lịch sử hơn 30 năm đổi mới và những kết quả toàn diện đã đạt được trong 3 năm 2016, 2017 và 2018.

Là sự đoàn kết, thống nhất, nỗ lực phấn đấu, chung sức, chung lòng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; phát huy đầy đủ, đúng đắn vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, quyền làm chủ của nhân dân; sự đồng tâm nhất trí của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội; sự phối kết hợp nhịp nhàng, đồng bộ, hiệu quả hơn của cả hệ thống chính trị…

Bên cạnh đó, đường lối, chính sách đối ngoại đúng đắn của Việt Nam nhận được sự ủng hộ, đánh giá cao của cộng đồng quốc tế, tranh thủ được các cơ hội mang lại trong quá trình hội nhập và hạn chế những rủi ro, tranh chấp có thể xảy ra trong quá trình phát triển đất nước.

Nhưng tha hoá đạo đức, tệ nạn xã hội vẫn "ngang nhiên" thách thức 

Tuy nhiên, đó chỉ là những mặt "tươi đẹp", vậy còn những tồn tại, hạn chế thì sao?

Bên cạnh các kết quả đạt được về kinh tế xã hội năm 2019 thì nền kinh tế nước ta vẫn còn có những tồn tại, hạn chế, một số vấn đề tích tụ, tồn đọng từ lâu, không dễ một sớm một chiều có thể khắc phục được. 

Nổi lên là mô hình tăng trưởng hiện nay chưa là động lực để tạo phát triển bứt phá, đưa kinh tế nước nhà tiến nhanh, tiến kịp các quốc gia trên trường quốc tế và khu vực. Hệ thống hạ tầng phục vụ cho phát triển của đất nước còn chưa tốt... 

Cơ cấu lại và phát triển các ngành, lĩnh vực tiếp tục có những chuyển biến tích cực, nhưng đi sâu vào thì vẫn còn có những yếu tố thiếu bền vững.

Kết quả thực hiện các đột phá chiến lược mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng vẫn còn hạn chế, không theo kịp yêu cầu phát triển, tác động trực tiếp tới tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội của đất nước giai đoạn 2016-2020.

Ngoài ra, những hạn chế, yếu kém về mặt văn hóa và con người đang cản trở sự phát triển đất nước như: tình trạng tha hóa đạo đức, tệ nạn xã hội, những vi phạm trong một số lĩnh vực xã hội đã và đang đặt ra những thách thức rất lớn, cần phải được quan tâm, ưu tiên giải quyết.

Tình trạng ô nhiễm môi trường diễn biến phức tạp; tác động của biến đổi khí hậu, các hiện tượng thời tiết cực đoan, sạt lở bờ sông, ven biển ngày càng xảy ra nghiêm trọng, quản lý môi trường tại các đô thị lớn, khu công nghiệp, làng nghề, lưu vực sông còn tồn tại, hạn chế.

Quốc hội đặt mục tiêu tốc độ tăng trưởng năm 2020 đạt khoảng 6,8%. Vậy đâu là động lực cho năm 2020, thưa Bộ trưởng?

Năm 2020 tiếp tục là năm có nhiều khó khăn, thách thức, tăng trưởng kinh tế và thương mại toàn cầu chậm lại, rủi ro gia tăng, xu hướng bảo hộ, cạnh tranh ngày càng phức tạp, gay gắt. Với độ mở kinh tế lớn, các tác động tiêu cực của kinh tế thế giới đến kinh tế trong nước nhanh và mạnh hơn.

Tuy nhiên, với những biện pháp đề ra tập trung vào các nhiệm vụ, như: Quyết liệt đổi mới và cải cách hiệu quả hơn nữa để khơi thông thể chế, nguồn lực cho phát triển; Tiếp tục cải thiện rõ rệt môi trường đầu tư, kinh doanh bình đẳng, thông thoáng, thuận lợi, tăng năng lực cạnh tranh quốc gia... sẽ giúp cho các động lực tăng trưởng của nền kinh tế tiếp tục phát huy hiệu quả tích cực. 

Bên cạnh đó, với nền tảng vĩ mô ổn định, với môi trường đầu tư kinh doanh thông thoáng và sự nỗ lực không ngừng của các cơ quan để cải cách, đổi mới, tập trung vào việc tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, nhất là về thể chế, là điều kiện thuận lợi khuyến khích các thành phần kinh tế phấn khởi, gia tăng đầu tư, sản xuất, tạo ra những năng lực mới tăng thêm cho nền kinh tế.

Phải có tư duy mới và tầm nhìn mới

Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang khẩn trương giúp Tiểu ban Kinh tế - Xã hội xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2021- 2030, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2021-2025 để chuẩn bị cho Đại hội Đảng 13. Vậy đâu là những điểm đáng chú ý trong chiến lược và kế hoạch này, thưa Bộ trưởng?

Sau gần 35 năm Đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Thế và lực của nước ta đã lớn mạnh hơn nhiều; quy mô, tiềm lực, sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên; tính độc lập, tự chủ được cải thiện. Vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao. 

Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn những tồn tại, hạn chế và tiềm ẩn nhiều rủi ro, khả năng chống chịu, thích ứng với tác động bên ngoài còn yếu. Các yếu tố nền tảng (thể chế, hạ tầng, nguồn nhân lực...) để sớm trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại còn thấp xa so với yêu cầu. 

Nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình và tụt hậu xa hơn về kinh tế vẫn còn là thách thức lớn. Già hóa dân số tăng nhanh dẫn đến áp lực lên hệ thống an sinh xã hội và tác động đến tăng trưởng kinh tế. Nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, bảo đảm an ninh quốc gia gặp nhiều khó khăn, thách thức; sự chống phá của thế lực thù địch, phản động còn phức tạp. Tình hình biển Đông diễn biến ngày càng phức tạp, khó lường, ảnh hưởng trực tiếp đến nước ta.

Trong khi đó, bối cảnh quốc tế trong giai đoạn sắp tới có nhiều biến động. Bên cạnh xu thế chủ đạo hòa bình, hợp tác, liên kết và phát triển được dự báo là vẫn tồn tại sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn theo hướng ngày càng phức tạp, gay gắt. Phát triển bền vững trở thành xu thế bao trùm trên thế giới.

Điều kiện, thế và lực của nước ta cho phép có những tư duy mạnh dạn hơn, mạnh mẽ hơn, nhưng, bối cảnh quốc tế mới, đòi hỏi phải có tư duy mới, tầm nhìn mới và đây chính là những điểm đáng chú ý trong Chiến lược và phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội lần này. 

Về tư tưởng phát triển trong giai đoạn tới cần phải: Lấy phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; phải chủ động, tích cực tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với quá trình hội nhập quốc tế, đổi mới tư duy và hành động, nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội để phát triển. 

Lấy hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập và thực thi pháp luật hiệu lực, hiệu quả là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy phát triển đất nước. 

Và đặc biệt là, làm sao để khơi dậy khát vọng dân tộc, ý chí tự cường và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng đất nước phát triển và thịnh vượng; phát huy tối đa nhân tố con người, lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững. 

Đồng thời, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ phải trên cơ sở làm chủ công nghệ đi đôi với chủ động, tích cực hội nhập, đa dạng hóa thị trường, nâng cao sức chống chịu và khả năng thích ứng của nền kinh tế.… 

Về mục tiêu phát triển, hướng tới việc thu hẹp khoảng cách phát triển với thế giới trong dài hạn, theo đó có thể đặt vấn đề đến năm 2030, nước ta trở thành nước công nghiệp, thuộc nhóm trên của các nước có thu nhập trung bình cao.

Có thể chế quản lý hiện đại, kinh tế phát triển năng động, nhanh và bền vững, độc lập, tự chủ, phát huy sức sáng tạo, ý chí và khát vọng phát triển, sức mạnh toàn dân tộc. Theo đó, có thể đặt mục tiêu tốc độ tăng trưởng (GDP) đạt bình quân khoảng 7,0%/năm; GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đến năm 2030 đạt khoảng 8.000 USD/người.

Let's block ads! (Why?)

Post a Comment

 
Top